Đối với bà con đã, đang và chuẩn bị nuôi nghêu thì những kiến thức về phòng chống bệnh tật ở loài nhuyễn thể này là yếu tố rất quan trọng để có được một mùa nuôi thả bội thu. Một trong số các bệnh phổ biến nhất trong đó chính là các bệnh lý liên quan đến ký sinh trùng Ostrincola koe. Thực chất, đây là một loại giáp xác chân chèo có kích cỡ siêu nhỏ. Tuy nhiên, nó lại có mức độ nguy hiểm cao đối với ao nghêu được nuôi trồng.
Cụ thể, các bệnh do ký sinh trùng Ostrincola koe trên nghêu từng được phát hiện ở rất nhiều nơi. Và đây cũng được coi là nguyên nhân hàng đầu gây ra cái chết của loài nhuyễn thể này. Hơn nữa, tỉ lệ lây lan của nó rất nhanh chóng, có thể đạt tới 30 cá thể/ con nghêu. Đặc biệt, chúng cũng chưa hề có biện pháp đặc trị nào nên bà con chủ yếu tập trung vào phương pháp phòng bệnh để giảm thiểu rủi ro.
Mục Lục
Tìm hiểu về ký sinh trùng Ostrincola koe
Sự hiện diện của Ostrincola koe đã xuất hiện ở Tanaka vào năm 1961 trên nghêu Bến Tre Meretrix lyrata. Năm 2016 – 2018, nhóm thực hiện đề tài “nghiên cứu hiện tượng nghêu chết hàng loạt và các giải pháp hạn chế thiệt hại” đã xác định sự hiện diện của loài Ostrincola koe trên nghêu M. lyrata nuôi tại Bến Tre bằng phương pháp mô tả hình thái dựa trên những đặc điểm phân loại của Ho & ctv (2012), Lim & Saito (2010), Lin & Ho (1999).
Nguyên nhân gây bệnh được cho là do giáp xác chân chèo (copepod) Ostrincola koe. Đây là loài ký sinh trùng gây hại cho nhiều loài nhuyễn thể. Trong đó có nghêu. Dưới đây là một số đặc điểm của loài ký sinh này:
- Chiều dài 1.163 – 1.224 µm (không bao gồm râu)
- Chiều rộng 334 – 337 µm
- Có lớp vỏ giáp giống như các loài copepod khác. Nhưng nó lại có 2 đốt sinh dục với chiều dài của đốt lớn hơn chiều rộng (khoảng 152 x 121µm)
- Không chân hàm
- Râu có 7 đốt
- Đốt 3 của anten có tỷ lệ chiều dài/chiều rộng nhỏ hơn 4/1 (2,8/1 – 3,6/1)
- Ở đốt bụng thứ 3 có hàng viền gai
- Các chân từ 1-4 chia hai nhánh với 3 đốt có nhiều lông nhánh
- Con cái O. koe có hai buồng trứng và có 7 trứng/buồng
Những nơi từng phát hiện ra ký sinh trùng ở nghêu
Loài ký sinh trùng này đã là nguyên nhân ban đầu gây chết hàng loạt cho nghêu dầu Meretrix meretrix tại Trung Quốc. Trong đó, cường độ nhiễm đạt 30 cá thể/con nghêu (Ho & Zheng 1994). Sự hiên diện của O. koe cũng đã được ghi nhận trên nghêu Manila Tapes philippinarum và nghêu mật Meretrix lusoria nuôi ở Hàn Quốc (Ho & Kim 1991, Kim 2004), tại Nhật Bản (Kô & ctv 1962, Kim & Saito 2010), tại Đài Loan (Ho & ctv 2012). Ở Việt Nam trong nghiên cứu của Ngô Thị Ngọc Thủy, 2011 đã xác định sự hiện diện của loài Ostrincola sp. trên nghêu Bến tre Meretrix lyrata nuôi ở các tỉnh ven biển miền Nam, Việt Nam.
Phòng trị bệnh do ký sinh trùng Ostrincola koe trên nghêu
Chưa có biện pháp cụ thể để phòng bệnh ký sinh trùng Ostrincola koe trên nghêu. Theo khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, để phòng bệnh do ký sinh trùng gây ra, người nuôi cần thực hiện các biện pháp sau:
- Căn cứ vào kết quả quan trắc môi trường và thời tiết, người nuôi tuyệt đối không nên thả giống vào thời điểm thời tiết không thuận lợi.
- Duy trì mật độ thả thích hợp: 180 – 200 con/m2 với cỡ giống nuôi 400 – 600 con/kg; dưới 250 con/m2 đối với cỡ giống nuôi 500 – 800 con/kg; và 250 – 300 con/m2 đối với cỡ giống 800 – 2.000 con/kg.
- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra các yếu tố môi trường nước. Ví dụ như nhiệt độ, độ mặn… ở bãi ngao. Từ đó, khuyến cáo, cảnh báo cho để khuyến cáo cho người nuôi.
- Trong trường hợp, ngao (nghêu) đạt kích cỡ thu hoạch cần khẩn trương thu hoạch tránh thiệt hại xảy ra. Đối với ngao (nghêu) chưa đạt kích cỡ thu hoạch cần chủ động san thưa mật độ không để mật độ quá dày.
- Nếu phát hiện ngao (nghêu) chết, lập tức thu gom, xử lý. Mục đích là để tránh lây lan sang các cá thể còn sống. Đồng thời, bà con cần có biện pháp khai thông các vùng đọng nước. Từ đó, tránh hiện tượng đọng nước cục bộ, tránh nhiệt độ tăng cao vào buổi trưa.