Cá lóc là một trong những loại cá phổ biến ở Việt Nam, thịt thơm ngon, giá cả hợp lý nên rất được các bà nội trợ ưa chuộng. Nuôi cá lóc có thể được đầu tư theo nhiều mức độ khác nhau và không nhất thiết phải tốn nhiều diện tích. Người nuôi có thể đầu tư ở mức sản xuất thâm canh nhưng cũng có thể sử dụng ao nhỏ hoặc nuôi trong bè, bể, bể xi măng hoặc trải bạt. Vì vậy, nuôi cá lóc phù hợp với cả quy mô nhỏ và lớn. Đây không chỉ là mô hình nuôi thủy sản giúp xóa đói giảm nghèo mà còn là mô hình làm giàu của các doanh nghiệp Việt Nam nên đầu tư phát triển và nhân rộng.
Mục Lục
Đặc điểm sinh trưởng của cá lóc
Cá lóc thường sống ở đồng ruộng, sông, kênh rạch và có khả năng thích ứng cao với sự biến động về nhiệt độ nước của môi trường. Thức ăn ưa thích là động vật và thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cá. Cá lóc là loài có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, trong điều kiện nuôi tốt thì sau 6 – 8 tháng cá có thể đạt 0,5 – 1,2 kg/con; cá cái thường lớn nhanh hơn cá đực. Cá lóc đẻ lần đầu khoảng 5 – 6 tháng tuổi, tốt nhất ở giai đoạn 1 – 4 tuổi, sinh sản tập trung từ tháng 4 – 8 và có tập tính bảo vệ trứng và cá con.
Hướng dẫn cách nuôi cá lóc trong ao
- Diện tích ao: 200 – 1.000m2, mật độ: 40-50 kg/100m2
- Thức ăn: Cá lóc là loại cá ăn thịt. Thức ăn khi nhỏ (thân dài 3 – 8 cm) là côn trùng, cá con và tôm con; khi thân dài trên 8 cm ăn cá con. Khi trọng lượng nặng 0,5 kg chúng có thể ăn tới 20% trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Trong điều kiện nuôi nhân tạo, chúng cũng ăn thức ăn chế biến. Nếu dùng cá tạp, phế phẩm lò mổ, khẩu phần 5 – 7% khối lượng/ngày. Nếu dùng thức ăn viên (đảm bảo 45% đạm) 1,5-2% khối lượng cá/ngày.
- Nuôi khoảng 45 – 60 ngày cá thành thục.
- Chọn cá bố mẹ: Cá đực cơ thể thon, bụng nhỏ, màu sắc rõ các vạch trên thân, không xây sát. Cá cái: bụng to, mềm, lỗ sinh dục màu hồng, lồi, trứng vàng rơm, bóng, đều.
Kỹ thuật cho cá đẻ và ấp trứng cần lưu ý
Cá lóc đẻ tự nhiên
Có thể đào hố đất nhỏ (2-4 m2), độ sâu 0,8-1,2m, có nguồn nước cấp vào ao đẻ. Mặt hố có thể thả ít bèo, rau muống hoặc làm vỉ che nắng. Mật độ 1 cặp/1 ao (1 đực, 1 cái). Nếu sử dụng ao to cho cá lóc đẻ cần tiến hành như sau:
- Cải tạo ao, vét bùn, rải vôi, phơi đáy.
- Lấy nước vào ao, để lắng trong 3-5 ngày. Duy trì mực nước 0,8-1m.
- Làm tổ cho cá đẻ bằng lá dừa cắm xuống ao hoặc rau, bèo, mỗi tổ cách nhau 3-4m, cắm cách đáy 0,3-0,5m. Để sẵn trong tổ rau muống, rơm rạ để giữ trứng khi cá đẻ.
Cá lóc đẻ bằng phương pháp nhân tạo
Yêu cầu: Chọn cá chính xác, đặc biệt cá đực; kích thích tố có hoạt tính cao. Đối với cá đực: Tiêm trước cá cái 8-10 tiếng, liều lượng: HCG 3.000 – 4.000 UI/kg hoặc tiêm cùng với lần tiêm thứ nhất của cá cái. Đối với cá cái: tiêm 2 lần:
- Liều 1: 500 – 1.000 UI/kg cá cái.
- Liều 2: tiêm sau lần 7 – 8 giờ tiếp tiêm lần 2: liều lượng: 3 – 5 não + 3.000 – 4.000 HCG UI/kg cá cái.
- Sau 12 – 15 giờ cá sẽ đẻ trứng.
- Sau khi tiêm xong, có thể cho cá đẻ trong bể xi măng, bể đất lót bạt hoặc cho cá đẻ dưới ao. Bể đẻ có diện tích 2-3m2, độ sâu 0,3-0,5m; mật độ 1 cặp/1 bể. Nếu cho đẻ dưới ao cần cắm tổ cho cá, các tổ cách nhau 3-4m.
Kỹ thuật ấp trứng cá lóc
- Có thể sử dụng nhiều phương tiện sẵn có để ấp trứng cá lóc: thau, bể nhựa,…
- Mực nước: 0,2-0,5m
- Mật độ ấp trứng trung bình: 2.000 trứng/dm2.
- Thay nước: 6 giờ/lần.
- Nguồn nước ấp: sạch, không nhiễm bẩn và nhiễm bệnh
- Chú ý: loại bỏ trứng ung (có màu trắng đục)
- Sau khi cá nở 2 ngày có thể chuyển cá ra các dụng cụ có diện tích lớn hoặc các ao nhỏ đã được cải tạo đúng kỹ thuật.
Những kỹ thuật ương cá lóc hiệu quả cao
Kỹ thuật ương cá lóc trong giai/vèo
Ương cá lóc trong vèo có nhiều ưu điểm như có thể nuôi ở mật độ cao để có sản lượng lớn, thức ăn cho cá được tập trung, cá không bị cọ sát ở phần dưới đáy ao hoặc không chui được xuống bùn nên tỷ lệ cá bị xây xát rất ít. Cá tập trung ăn và ngủ rồi lại ăn, ít nhiễm bệnh nên tỉ lệ cá bị hao hụt thấp và nhất là việc xử lý thuốc phòng trị bệnh cho cá thuận lợi và ít tốn kém hơn trong ao đất.
Đặc điểm cá ương trong vèo lưới tăng trọng lượng nhanh và kích cỡ cá đồng đều. Giá trị thương phẩm cao hơn cá nuôi ở ao. Đồng thời, bên ngoài vèo lưới thả thêm các loại cá ăn tạp nhằm cải tạo ao, tận dụng được nguồn thức ăn thừa. Đây cũng là nguồn thu không nhỏ.
- Yêu cầu: loại lưới mùng mắt nhỏ cá bột không lọt. Nước ao sạch, mát.
- Mật độ: 10.000-20.000/m2 sau 1 tháng san thưa còn 5.000-10.000 con/m2.
- Thức ăn: tương tự như ương trong bể xi-măng, bể nhựa.
- Sau khoảng 10 ngày ương, tập cho cá ăn tép, cá nhỏ băm nát.
Kỹ thuật ương cá lóc trong bể
- Thức ăn: Dùng động vật phù du hoặc trứng đã luộc chín đánh tan trong nước cho cá ăn. Cho ăn 4-6 lần/ngày. Lượng cho ăn: thỏa mãn nhu cầu của cá
- Mật độ ương: 2.000-4.000 con/m2.
- Sau 30 ngày, san thưa còn 1.000-2.000 con/m2
- Mực nước: 0,5-0,8m.
- Ngày thay nước 2-4 lần, mỗi lần thay 30% thể tích nước.
- Sau khoảng 10 ngày ương, tập cho cá ăn tép, cá nhỏ băm nát.