Chim bồ câu là loại gia cầm dễ chăn nuôi, mang lại hiệu suất kinh tế cao. Để đảm bảo chất lượng thịt bồ cao, an toàn thực phẩm thì người chăn nuôi cần phải để bồ câu khỏe mạnh, không nhiễm bệnh tật. Ở chim bồ câu thường dễ gặp bệnh cầu trùng. Đây cũng được coi là một loại bệnh nguy hiểm nếu không có biện pháp can ngăn kịp thời. Để kiểm soát loại bệnh này chúng tôi sẽ hướng dẫn bà con cách để phòng chống nó còn nếu có bồ câu có mắc phải thì cũng kịp thời chữa trị để tránh lây lan diện rộng.
Mục Lục
Bệnh cầu trùng ở chim bồ câu
Nguyên ngân gây ra bệnh cầu trùng
Cầu trùng là một bệnh ký sinh trùng do đơn bào lớp nguyên sinh động vật (protozoa) gây ra. Bệnh lây lan nhanh và gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến bồ câu nuôi.
Bệnh do ký sinh trùng đơn bào thuộc giống Eimeria gây ra. Đây là những ký sinh trùng nội bào bắt buộc với vòng đời phức tạp. Bao gồm cả giai đoạn hữu tính và vô tính. Ở gia cầm, Eimeria ảnh hưởng đến ruột khiến nó dễ mắc các bệnh khác (viêm ruột hoại tử). Nó làm cho cơ quan này giảm khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng.
Đặc điểm dịch tễ của bệnh cầu trùng
Cơ chế tác động: Cầu trùng ở dạng cảm nhiễm sau khi xâm nhập vào đường tiêu hóa của bồ câu qua thức ăn, nước uống. Nó sẽ phát triển và ký sinh ở niêm mạc ruột non và ruột già của bồ câu. Tại đây, ký sinh trùng sẽ chiếm đoạt chất dinh dưỡng làm cho bồ câu gầy, yếu, giảm tăng trọng. Gây tổn thương niêm mạc ruột, làm bong tróc nhung mao ruột. Từ đó dẫn đến viêm ruột do nhiễm khuẩn thứ phát do E. coli, Salmonella spp và các vi khuẩn khác. Các trường hợp bệnh nặng bồ câu sẽ bị viêm ruột, xuất huyết.
Đối tượng cảm nhiễm: Bệnh thường xuất hiện ở bồ câu 1 – 4 tháng tuổi.
Đường lây truyền: Bệnh lây qua đường tiêu hóa. Bồ câu bị bệnh cầu trùng hoặc bồ câu khỏi bệnh nhưng còn mang trùng sẽ bài thải trứng cầu trùng theo phân ra nền chuồng. Đây là nguồn gốc lây lan bệnh trong trại. Trứng cầu trùng trên nền chuồng sẽ nhiễm vào thức ăn, nước uống. Khi bồ câu nhặt thức ăn có trứng cầu trùng, chúng sẽ đi vào ruột và gây bệnh. Ngoài ra các loài cầu trùng gây bệnh cho gà cũng đồng thời gây bệnh cho bồ câu. Các khu vực nuôi chung gà với bồ câu thì thường thấy bệnh cầu trùng của gà lây sang bồ câu.
Mùa vụ: Bệnh thường xảy ra vào những giai đoạn thời tiết giao mùa như cuối xuân sang hè hoặc thu sang đông. Tuy nhiên, tại những cơ sở chăn nuôi ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh, bệnh có thể xảy ra quanh năm.
Các triệu chứng mà bồ câu mắc phải
Khi nhiễm bệnh, bồ câu thường phát triển chậm và gầy, yếu. Xuất hiện thêm các triệu chứng như ỉa phân lỏng, có nhiều dịch nhày. Đôi khi phân có máu do xuất huyết niêm mạc ruột. Bồ câu bị bệnh nặng có thể chết do ỉa chảy và kiệt sức.
Độc tố của cầu trùng tiết ra trong quá trình ký sinh cũng tác động đến quá trình phát triển của bồ câu. Kiểm tra phân tìm noãn nang của cầu trùng. Sau đó quan sát hình dạng của noãn nang cầu trùng. Nuôi cấy noãn nang, theo dõi các giai đoạn phát triển và mổ khám bồ câu. Xác định vị trí ký sinh của cầu trùng trong hệ thống tiêu hóa để định loại loài cầu trùng ký sinh.
Phần lớn bệnh cấu trùng ở bồ câu thể hiện các triệu chứng lâm sàng nhẹ hơn bệnh cầu trùng ở gà con khi cùng nhiễm các loài cầu trùng tương ứng. Bồ câu thường phát triển chậm và gầy yếu.
Cách điều trị bệnh cầu trùng
Bệnh cầu trùng có thể ghép vi khuẩn đường ruột (E.coli hoặc Salmonella…). Cho nên cần điều trị cả 2 bệnh này cùng lúc. Thực hiện các biện pháp điều trị theo phác đồ sau: Pharticoc-plus, 10 g/7 lít nước, liên tục 3 ngày, nghỉ 2 ngày rồi cho uống tiếp 2 ngày. Hoặc Pharm-cox G, 1 ml/lít nước uống, liên tục 48 giờ. Hoặc 3 ml/lít nước uống, 8 giờ/ngày, liên tục 2 ngày để diệt cầu trùng.
Grigecoccin: do các hãng thuốc thú y (Richter) của Hungary sản xuất thuốc dạng bột không tan trong nước nên phải trộn trong thức ăn cho bồ câu ăn. Liều dùng 2,5gam thuốc trộn với 10 kg thức ăn, cho bồ câu ăn liên tục 3-4 ngày, tới khi hết triệu chứng lâm sàng.
Cùng đó, cho bồ câu uống kèm một trong các loại kháng sinh sau: Oracin-pharm (1 ml/1,5 – 2 lít nước uống); Pharcolivet, Ampi-coli pharm (10 g/2,5 lít nước); Pharmequin, Pharamox G, Gatonic-plus (1 g/lít nước uống)… liên tục trong 3 – 5 ngày.
Cách phòng bệnh hiệu quả
Thực hiện tốt các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi. Nhập giống bồ câu từ các cơ sở giống an toàn về bệnh cúm và các bệnh truyền nhiễm. Người nuôi nên nuôi cách ly bổ câu mới nhập trại ít nhất trong 2 tuần đầu. Nếu thấy đàn chim vẫn hoàn toàn khỏe mạnh, không có biểu hiện dịch bệnh mới nhập vào khu vực chăn nuôi.
Tiêm vaccine phòng bệnh. Vệ sinh, quét dọn hàng ngày đối với các dãy chuồng, khu vực xung quanh chuồng và các lối đi. Định kỳ phun thuốc sát trùng (Chlorine 3%, Formol 2%) 2 tuần/lần đối với toàn bộ khu trại, chuồng nuôi kể cả khu vực đệm lót.
Thức ăn đảm bảo chất lượng, nước uống sạch sẽ. Nếu đàn bồ câu có nguy cơ bị bệnh về đường tiêu hóa, người nuôi có thể dùng tỏi với liều 5 g/kg trọng lượng. Để phòng bệnh và nâng cao sức đề kháng. Bổ sung men tiêu hóa, vitamin, chế phẩm vi sinh vào thức ăn; nước uống cho đàn chim để tăng đề kháng.
Phòng nhiễm cầu trùng thì dùng mỗi tuần 2 ngày thức ăn có trộn thuốc cho bồ câu. Ngoài ra còn một số thuốc trị cầu trùng như: Cocci-stop, Sulfamerazin, Sulfaquinoxalin, … có thể dùng cho bồ câu; nhưng phải sử dụng đúng liều, đúng quy trình như ghi trong nhãn thuốc.