Khi chăn nuôi bất cứ loại gia cầm nào, người nuôi cũng cần hết sức chú ý đến chế độ dinh dưỡng cho loài vật đó. Việc đảm bảo dinh dưỡng trong chăn nuôi vịt cũng không ngoại lệ. Dinh dưỡng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc quyết định đến sức khỏe của vịt, nhất là trong giai đoạn vịt sắp đẻ. Việc cung cấp đầy đủ các loại thức ăn chính lúc vịt đẻ sẽ giúp đảm bảo sức khỏe cho chúng, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Hãy cùng bài viết sau đây của chúng tôi tìm hiểu một số chất dinh dưỡng quan trọng không thể bỏ qua trong giai đoạn chăm vịt đẻ nhé.
Mục Lục
Chú ý đến lượng thức ăn cung cấp cho vịt
Trong chăn nuôi vịt đẻ, cần lưu ý đến lượng thức ăn cung cấp cho vịt nhằm đạt khả năng sản xuất tối đa. Tuy nhiên không làm cho vịt bị béo từ đó làm giảm khả năng đẻ trứng.
Đối với thức ăn của vịt đẻ thường có 2 dạng: thức ăn hỗn hợp (thức ăn viên) và thức ăn kết hợp giữa thức ăn hỗn hợp và nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có tại địa phương. Chẳng hạn như 70 – 80% thức ăn viên + 20 – 30% thức ăn tự nhiên. Theo các khuyến cáo, dùng thức ăn viên cho vịt đẻ là tốt nhất. Bởi trong thức ăn viên có đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu của vịt đẻ. Thức ăn thông thường như lúa, đầu tôm, ngô… thường không cân đối được các chất dinh dưỡng. Hàm lượng không ổn định. Hơn nữa, dựa vào đặc điểm sinh học có thể thấy, vịt thích thức ăn dạng hạt hơn các dạng khác.
Hàm lượng các chất cần thiết trong chế độ thức ăn cho vịt đẻ
Protein là chất không thể thiếu
Protein là yếu tố đóng vai trò quyết định đến khả năng đẻ và tỷ lệ đẻ trứng của vịt. Thức ăn giai đoạn vịt đẻ cần đảm bảo 17 – 19% protein thô. Chẳng hạn, đối với giống vịt Super M. Anh Đào, Tiệp và CV 2000 nhu cầu protein thô là 19,5%. Với vịt Khali Cambell, vịt cỏ là 17%. Chất lượng protein phụ thuộc vào sự có mặt của các loại axit amin. Thức ăn protein có nguồn từ động vật (như bột cá, giun ốc, cua, bột xương…) và thực vật (bột đậu, lạc…).
Protein có nguồn gốc động vật được coi là các loại thức ăn có đầy đủ hàm lượng protein. Trong khi protein có nguồn gốc thực vật thường có thành phần các axit amin không đầy đủ. Trong 100 g protein động vật, vịt có thể hấp thu được 70 – 90% chất dinh dưỡng. Đối với protein thực vật vịt chỉ hấp thu khoảng 60 – 65%. Tuy nhiên, cần cân nhắc khi bổ sung protein có nguồn gốc động vật như bột cá vào thức ăn của vịt đẻ. Bởi nó có thể làm ảnh hưởng đến mùi vị của trứng.
Chất béo
Chất béo cũng là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng của vịt. Mỗi gram chất béo oxy hóa có thể sản sinh ra 39.3 Kj năng lượng, bằng 2.25 lần của carbohydrate. Trong khẩu phần thức ăn bổ sung vào một ít dầu mỡ. Không những có thể thỏa mãn nhu cầu năng lượng cao, mà còn có thể nâng cao tỷ lệ lợi dụng của năng lượng cao và khả năng chống sốc nhiệt của nó.
Chất béo còn là dung môi của chất vitamin tan trong dầu mỡ. Nó có thể thúc đẩy sự hấp thụ và lợi dụng của các vitamin A, D, E, K và các carotene. Trong các chất béo, đặc biệt là trong dầu thực vật, có chứa một loại acid béo không bão hòa. Đây gọi là linoleic acid, nó là thành phần dinh dưỡng không thể thiếu để vịt sinh trưởng và phát dục. Khi linoleic acid thiếu, vịt con sẽ sinh trưởng chậm. Dễ mắc các bệnh gan nhiễm mỡ và bệnh về đường hô hấp lượng đẻ trứng của vịt giống thấp, tỷ lệ ấp nở thấp.
Năng lượng
Thông thường nhu cầu về năng lượng của vịt đang đẻ đều cao hơn nhu cầu năng lượng của vịt cái không đẻ. Nhu cầu về năng lượng đối với vịt sinh trưởng ở các giai đoạn khác nhau cũng sẽ khác nhau. Đối với loại vịt đẻ thì nhu cầu năng lượng của nó thường ở thời kỳ đầu cao hơn ở thời kỳ cuối. Nhu cầu năng lượng của vịt hậu và vịt dùng làm giống cũng thấp hơn thời kỳ sinh trưởng trước.
Những thức ăn giàu lượng đường thường có trong các loại thực vật như lúa, ngô, khoai, sắn… Trong đó, lúa thường được dùng khá phổ biến để nuôi vịt đẻ. Trong lúa cũng có tới 5% đạm tiêu hóa. Nên nâng cao khả năng tiêu hóa và có thêm vitamin H cần thiết đối với khả năng đẻ trứng của vịt. Các cơ quan khuyến cáo người nuôi nên ủ cho lúa lên mầm trước khi cho vịt ăn.
Ngoài lúa ra, hiện nay ngô được dùng nhiều để nuôi các loại vịt, trong đó ngô thích hợp nhất cho vịt vỗ béo. Bởi, ngô có hàm lượng protein tiêu hóa khoảng 7,4%, lipid 4,5% và nhiều caroten. Khi vịt đẻ cho ăn ngô, lòng đỏ của trứng sẽ có màu vàng sẫm. Nó được người tiêu dùng thích hơn. Tuy không thay đổi hàm lượng các chất trong quả trứng.
Bổ sung vitamin
Vitamin rất cần thiết trong nhu cầu dinh dưỡng của vịt đẻ. Tuy nhiên đối với vịt được chăn thả thường không bị thiếu hụt các nguồn vitamin. Nhờ vào các thức ăn mà vịt tận dụng được trong quá trình kiếm mồi hoặc vitamin có trong thức ăn bổ sung. Nguồn vitamin ngoài tự nhiên vịt có thể tìm kiếm được. Đó là rong bèo, rau diếp, bắp cải, các loại cỏ…
Tuy nhiên, người nuôi cũng cần phải quan sát vào da hoặc lông của vịt. Nhằm để biết được chính xác nhu cầu vitamin của chúng. Khi vịt đẻ, nhất là vào mùa hè, nên bổ sung thêm các loại củ, quả giàu vitamin. Từ đó để đáp ứng đủ nhu cầu của vịt đẻ. Nếu thấy mỏ, chân nhợt nhạt, lông xù hoặc mắt ướt thì đây là những biểu hiện của vịt bị thiếu Vitamin A, B, D. Cần phải có những biện pháp xử lý phù hợp.
Tăng cường chất khoáng
Khoáng, đặc biệt là canxi là chất dinh dưỡng trong hình thành vỏ trứng và làm tăng tính thèm ăn của vịt. Khi vịt không được chăn thả người nuôi sẽ phải tiến hành bổ sung khoáng cho vịt đẻ đảm bảo tỷ lệ trứng. Một số nguồn bổ sung chất khoáng gồm vỏ trứng, vôi bột, muối ăn… Trong vỏ trứng có tới 28% canxi. Có thể lấy vỏ trứng được đun chín nghiền nhỏ rồi trộn với thức ăn khác để cho vịt ăn. Hoặc sử dụng vôi chết để khô nghiên thành bột rồi trộn với thức ăn khác. Bổ sung hằng ngày vào chế độ ăn của vịt. Ngoài ra, bổ sung 0,5 – 1% muối vào khẩu phần ăn cũng giúp cung cấp thêm chất khoáng cho vịt đẻ.
Đảm bảo đủ nước
Vịt là loài thủy cầm nên uống rất nhiều nước. Do đó, trong chuồng nuôi phải luôn có đủ nước uống và phải đảm bảo vệ sinh cho vịt. Lượng nước cần cung cấp hàng ngày là 5 lít/con.
Ngoài các nguồn thức ăn như trên, người nuôi cũng có thể bổ sung thêm men tiêu hóa, premix, điện giải và tiêm phòng vắc xin đầy đủ cho vịt để đạt tỷ lệ đẻ cao và phòng tránh được dịch bệnh.